Thạch xương bồ (danh pháp: Acorus gramineus) là một loài thực vật có hoa trong họ Xương bồ. Loài này được William Aiton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1789. Loài này phân bố ở Đông Á. Thân rễ chứa tinh dầu có asaron, glucosid đắng acorin. Là cây thân thảo, sống nhiều năm. Thân rễ phân nhánh, mọc bò ngang gồm nhiều đốt. Lá hình dải hẹp, có bẹ, mọc ốp vào nhau và xòe sang hai bên ở ngọn. Cụm hoa hình bông mọc ở đầu một cán dẹt, phủ bởi một lá bắc to và dài, nom như cụm hoa mọc trên lá. Quả mọng khi chín màu đỏ nhạt. Thân rễ và lá có mùi thơm đặc biệt. Sông Hương được đặt tên vì có loài này mọc hai bên sông tỏa mùi thơm.

Thạch xương bồ dùng làm thuốc là thân rễ phơi khô của cây thạch xương bồ. Sở dĩ người ta dùng thạch xương bồ để điều trị ho là vì theo quan niệm Đông y thì thạch xương bồ có tác dụng trên hệ hô hấp. Thạch xương bồ có vị cay, tính ôn, vào hai kinh tâm và can. Nó có tác dụng tẩy uế, khai khiếu, tuyên khí, trục đờm nên có tác dụng trị thần kinh suy nhược, kém tiêu hóa, thông cửu khiếu, thông khí, giải độc, trị phong hàn tê thấp. Những thể ho mà có đờm thì dùng thạch xương bồ có ích.
Người ta đã nghiên cứu dịch chiết tinh chất của thạch xương bồ dùng cho bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Kết quả cho thấy, sau 3 tuần điều trị thử nghiệm, triệu chứng bệnh phổi tắc nghẽn được giảm theo chiều hướng tốt.
Theo các nghiên cứu về y học hiện đại, thạch xương bồ có nhiều tác dụng khá tốt. Nó được chứng minh là có tác dụng cầm tiêu chảy, đau dạ dày, ho, hen phế quản, viêm phế quản, suy nhược thần kinh, sốt, co giật, viêm khớp và loạn nhịp tim. Liều dùng hằng ngày từ 3-8g theo dạng thuốc sắc, thuốc bột hay thuốc viên. Như vậy có thể nói rằng thạch xương bồ có tác dụng trên hệ hô hấp.
Bằng phân tích quang phổ, người ta phát hiện trong thạch xương bồ có hỗn hợp các axit béo, hỗn hợp đường, beta-asarone, calamol, chalamen, acotamin, acorin và tanin. Hỗn hợp các axit béo bao gồm: myristic (1.3%), palmitic (18.2%), palmitoleic (16.4%), stearic (7.3%), oleic (29.1%), linoleic (24.5%) và arachidic (3.2%). Hỗn hợp đường bao gồm: maltose (0.2%), glucose (20.7%) và fructose (79.1%).
Thạch xương bồ được thu hái vào mùa thu hoặc đông hàng năm. Sử dụng rễ cái to không nên sử dụng rễ non. Khi rễ cây thạch xương bồ khô có màu nâu, gióng ngắn, thơm, mắt rễ dày, không mốc mọt, thịt rễ hồng hồng.
Thạch xương bồ sau khi thu hái sẽ mang đi rửa sạch đất cát và sấy hoặc phơi khô. Thạch xương bồ được sử dụng làm dược liệu thì cần sơ chế, sau đó ủ qua đêm rồi bào và phơi khô. Đối với loại dược liệu này cần bảo quản ở nơi khô ráo, tránh ẩm ướt có thể bị mốc.
Thạch xương bồ có tác dụng gì?
"Thạch xương bồ có tác dụng gì?" Theo những sách cây và vị thuốc của Việt Nam, thạch xương bồ có chứa khoảng 0.5 đến 0.8 lượng tinh dầu. Hàm lượng tinh dầu này có chứa khoảng 86% hoạt chất asoron, thành phần còn lại trong thạch xương bồ bao gồm phenol và acid béo.
Theo nghiên cứu Y Học Hiện Đại, thạch xương bồ có tác dụng:Giúp an thần, chống co giật.
Tinh dầu dược liệu giúp những người đang gặp vấn đề liên quan đến giấc ngủ.
Lượng dầu bay hơi của dược liệu cũng giúp giảm sự vận động khi được làm thí nghiệm trên chuột.
Sử dụng tinh dầu và thuốc sắc của thạch xương bồ có thể giảm tình trạng co thắt cơ trơn của ruột và dạ dày, giúp tăng tiết đường tiêu hoá.
Lượng nước sắc của thạch xương bồ có khả năng tác động và hạn chế sự lên men của đường tiêu hoá.
Trong thí nghiệm thực hiện trên chuột trắng, tinh dầu trong dược liệu thạch xương bồ có thể giúp hạ nhiệt. Dịch chiết xuất thạch xương bồ ở nồng độ cao có thể sử dụng để ức chế hoạt động của các loại nấm gây bệnh ngoài da. Tuy nhiên khi sử dụng một liều lượng lớn thạch xương bồ có thể dẫn tới co giật và tử vong khi thực hiện thí nghiệm trên chuột.
Trong Y Học Cổ Truyền, cây thạch xương bồ có tác dụng hóa thấp, hòa vị, ninh thần, khai khiếu, tuyên khí, tẩy uế, trục đờm. Ngoài ra còn giúp điều trị các chứng suy nhược thần kinh, phong tê thấp, trẻ em bị nóng sốt, ăn không ngon, tiêu hoá kém, khó thở, ù tai....
Sử dụng thạch xương bồ ở dạng hoàn tán, sắc thuốc hoặc đắp ngoài da với liều lượng từ 5 - 10 gam khô mỗi ngày, nếu sử dụng tươi thì tăng liều gấp đôi. Ngoài ra, có thể sử dụng thạch xương bồ ở dạng thuốc viên, cao lỏng hoặc siro.
Bên cạnh việc biết thạch xương bồ có tác dụng gì thì khi sử dụng thạch xương bồ cần lưu ý với những trường hợp âm huyết hư, ra mồ hôi nhiều... Hợp chất beta asaron trong dược liệu thạch xương bồ có tác dụng chống nhiễm khuẩn, tăng tiết dịch vị, chống lại tình trạng co thắt. Tuy nhiên, nếu sử dụng hợp chất này quá nhiều có thể gặp một số tác dụng phụ như ức chế miễn dịch, viêm gan hoặc ung thư... Do đó, cần tham khảo ý kiến thầy thuốc trước khi sử dụng cây thạch xương bồ điều trị bệnh.
Beta asaron là một chất có nhiều tính năng quý như chống co thắt, tăng tiết dịch, chống nhiễm khuẩn. Nhưng người ta đã chứng minh được rằng beta asaron còn gây ra tác hại như ngộ độc, ung thư, đột biến, viêm gan và ức chế miễn dịch.
Người ta đã kiểm nghiệm và thấy rằng khối u xơ cơ ở ruột có thể được hình thành nếu như dùng beta asarone liền trong suốt 2 năm. Hơn thế nữa, khi thử nghiệm trên chuột người ta cũng thấy hiệu ứng tương tự đó là gây khối ung thư mà ở đây là ung thư gan, một dạng của ung thư biểu mô. Tiêm thử nghiệm chất này vào chuột non thì sau đó người ta thấy xuất hiện khối ung thư gan tiến triển nhanh theo thời gian. Các liều được thử nghiệm lần lượt là 16mg, 32mg và 52mg cho 1kg thể trọng thì lần lượt số con vật xuất hiện ung thư cũng tăng lên. Như vậy rõ ràng tác hại gây ung thư của beta asarone nói riêng và của thạch xương bồ nói chung là không thể bỏ qua.